Qua khảo sát tình hình thực hiện Dự án Làng TNLN trên địa bàn tỉnh cho thấy, từ năm 2008 đến nay, tỉnh đã triển khai thực hiện hai dự án Làng TNLN tại xã Trịnh Tường huyện Bát Xát và xã Lùng Vai huyện Mường Khương với tổng số tiền gần 90 tỷ đồng nhằm phát huy vai trò xung kích của Đoàn Thanh niên thực hiện phong trào “Thanh niên xung kích sáng tạo lập thân lập nghiệp” khai thác có hiệu quả tiềm năng đất nông nghiệp, nhằm phát triển kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế hộ bền vững, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; gắn phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực biên giới; giải quyết việc làm góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho thanh niên, nhân dân trong vùng dự án. Làng TNLN thuộc hai xã quy hoạch xây dựng trên diện tích trên 2.000 ha, được chia thành 05 cụm dân cư. Khu trung tâm có đầy đủ các công trình công cộng gồm nhà văn hóa khu trung tâm, nhà văn hóa khu dân cư, nhà điều hành, nhà tập thể, nhà bếp, nhà lớp học, trạm y tế, hệ thống cấp nước sạch. Sau khi hoàn thiện dự án, theo báo cáo đã thu hút được 109/150 hộ đến lập nghiệp; dự án được hoàn thành theo tiến độ. Theo mục tiêu, mô hình Làng TNLN sẽ trở thành khu dân cư mới được quy hoạch hợp lý, khang trang, ổn định và phát triển sản xuất, nâng cao đời sống góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ gìn biên giới, ổn định an ninh quốc phòng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, qua khảo sát cho thấy còn một số vấn đề đang được đặt ra cần được các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng tiếp tục quan tâm triển khai thực hiện như: Từ khi thực hiện dự án việc lập, phê duyệt dự án Làng TNLN chưa làm rõ diện tích đất vùng dự án, chưa tiến hành các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, đất canh tác cho các hộ gia đình vào định cư theo dự án. Sau khi dự án Làng TNLN hoàn thành, đơn vị được giao quản lý dự án chưa thực sự quan tâm, phối hợp để phát triển dự án hiệu quả, chưa tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc kịp thời; chưa xây dựng mô hình mẫu của Đoàn Thanh niên tham gia xây dựng nông thôn mới theo mục tiêu dự án. Các khoản hỗ trợ sinh kế giống cây trồng, vật nuôi cho người dân như chăn nuôi gia súc, gia cầm, dê cao sản, thủy sản chưa được duy trì và phát triển hiệu quả. Mô hình quản lý sau đầu tư chưa phù hợp với mô hình của dự án, dẫn đến những công trình công cộng như nhà điều hành, trạm y tế, nhà công vụ, nhà văn hóa hầu như không sử dụng. Việc tiếp nhận khi bàn giao cho chính quyền địa phương về tổng số hộ đã được bố trí, sắp xếp vào dự án; số hộ ở ổn định, số hộ đã di chuyển ra ngoài dự án; số hộ thiếu đất sản xuất và cơ sở hạ tầng chưa cụ thể, rõ ràng. Việc tiếp tục rà soát, nắm bắt hiện trạng, có giải pháp quản lý, khai thác phát huy hiệu quả dự án không kịp thời… Ngoài ra, hầu hết các chính sách hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn đều căn cứ vào nơi ở thường trú, trong khi còn tình trạng gia đình dù có tên trong danh sách đăng ký thường trú tại Làng TNLN nhưng lại không sinh sống tại Làng có thể dẫn đến sai sót khi triển khai chính sách. Tại thời điểm khảo sát tất cả các công trình đã đầu tư như: Nhà, hệ thống cấp nước, thủy lợi đều bị hư hỏng một phần nhưng chưa có đơn vị nào đề xuất phương án sử dụng, sửa chữa. Theo thống kê chưa đầy đủ, có đến khoảng trên 60% hộ gia đình tại Làng thanh niên lập nghiệp thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo. Dự án đầu tư, xây dựng Làng TNLN đã kết thúc đầu tư từ năm 2010 và năm 2018, các mục tiêu đề ra hiệu quả thấp, đời sống các hộ dân đang gặp rất nhiều khó khăn. Việc tổ chức triển khai dự án thiếu tính đồng bộ, chưa tạo ra được một mô hình mới, một mô hình tiến bộ tương xứng với tên gọi và mục tiêu của dự án là “Làng Thanh niên lập nghiệp”, cụ thể chưa xem xét việc bố trí đất sản xuất cho các đối tượng được tham gia dự án, chưa kịp thời xem xét việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho các hộ gia đình, cá nhân để các hộ yên tâm sản xuất, có thể thế chấp cho các tổ chức tín dụng vay vốn phục vụ sản xuất… Từ việc khảo sát, lập quy hoạch đến việc tổ chức thực hiện dự án quá xa thực tế, dẫn đến phát sinh rất nhiều khó khăn, sau nhiều năm triển khai thực hiện cả 2 dự án đều không phát huy được hiệu quả.
Đoàn khảo sát cho rằng, một trong những nguyên nhân của những bất cập nêu trên là do công tác quản lý của các cơ quan, đơn vị và cả khi bàn giao cho địa phương quản lý còn nhiều bất cập, không phát huy hiệu quả nhưng chưa có sự phối hợp đề xuất phương án giải quyết kịp thời; công tác tuyên truyền, vận động lựa chọn sắp xếp các hộ sinh sống tại Làng TNLN chưa hiệu quả, chưa đạt được mục tiêu kế hoạch dự án; quy mô quỹ đất sử dụng dự án là khá lớn nhưng chưa cắm mốc ranh giới và hoàn thiện các thủ tục cần thiết. Khó khăn về đất đai đã ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện các mục tiêu của dự án. Trên thực tế, đất có khả năng sản xuất rất ít, chủ yếu là rừng tự nhiên và đất đồi núi dốc và đất đã được quy chủ. Việc không có đất sản xuất ảnh hưởng đến công tác quy hoạch, bố trí dân cư, dẫn đến tình trạng một số hộ dân nhận hỗ trợ, làm nhà xong lại đi nơi khác làm ăn điển hình như Làng TNLN Lùng Vai có 23/50 hộ được lựa chọn sắp xếp tại dự án sau khi hoàn thành nhưng 02 hộ chưa làm nhà, 05 hộ chưa đến ở, 16 hộ tới cư trú, lập nghiệp chưa có đất sản xuất, chủ yếu đi làm thuê đời sống rất khó khăn…
Để thực hiện hiệu quả mục tiêu đặt ra về dự án Làng TNLN, Đoàn khảo sát đề nghị UBND các huyện Mường Khương, Bát Xát và cơ quan liên quan kiểm tra, rà soát quy trình triển khai thực hiện dự án, thủ tục nghiệm thu, bàn giao công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, việc bàn giao quản lý tài sản, đất đai của dự án Làng TNLN tại địa phương để có giải pháp quản lý, khai thác hiệu quả; khảo sát, đánh giá, báo cáo và xin ý kiến việc tiếp tục dự án hay kết thúc dự án để đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định; tổng số hộ đã được bố trí, sắp xếp vào dự án; số hộ ở ổn định, số hộ đã di chuyển ra ngoài dự án; số hộ thiếu đất sản xuất; xác định chính xác diện tích quy hoạch của dự án trên sơ đồ, bản đồ và ngoài thực địa; đất rừng tự nhiên, đất rừng phòng hộ, đất dành cho hoạt động khoáng sản năm trong phạm vi dự án đã được phê duyệt; diện tích đã hoàn thành thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; diện tích đất do UBND cấp xã quản lý sử dụng; diện tích đã giao cho các hộ gia đình cá nhân. Đối với diện tích đất sạch nhưng chưa giao cho các hộ gia đình, cá nhân bàn giao cho UBND xã quản lý để xây dựng phương án sử dụng đất theo đúng quy định; quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản đã nhận bàn giao hiệu quả.
Lưu Thị Hiên
Trưởng Ban Văn hóa -Xã hội HĐND tỉnh