Đồng chí Sùng A Lềnh, Phó trưởng Đoàn phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai phát biểu tại Tổ đối với nội dung sửa đổi và các điều khoản của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự và dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Chiều ngày 20/5/2025, kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận tại Tổ đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự và dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Phát biểu tại tổ thảo luận, đại biểu Sùng A Lềnh, Phó Trưởng Đoàn phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai đã góp ý trực tiếp đối với nội dung sửa đổi và các điều khoản của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự và dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, cụ thể:
Đồng chí Sùng A Lềnh phát biểu tại Tổ thảo luận
Đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự, đại biểu cho rằng dự thảo Luật đưa vào nhiều khái niệm mới như "Tòa án nhân dân khu vực", "Công an cấp xã", "Viện kiểm sát có thẩm quyền", đồng thời có sự thay đổi về thẩm quyền của một số cơ quan trong hệ thống tư pháp. Đây là những điều chỉnh cần thiết nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tuy nhiên cũng đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung đồng bộ các luật có liên quan như: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật Công an nhân dân, Luật Thi hành án hình sự… và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo cần xây dựng kế hoạch sửa đổi đồng bộ các luật có liên quan hoặc có lộ trình thực hiện cụ thể. Trường hợp chưa thể sửa đổi đồng bộ ngay, cần thiết kế quy định chuyển tiếp rõ ràng, hoặc bổ sung cơ chế giải thích trong chính dự thảo Luật này để bảo đảm thống nhất, tránh phát sinh vướng mắc khi triển khai trên thực tiễn. Đại biểu đồng tình với chủ trương tăng thẩm quyền cho các cơ quan ở cấp cơ sở như Công an cấp xã, Tòa án nhân dân khu vực là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và thực tiễn phân cấp quản lý. Tuy nhiên, đại biểu nhận định và chỉ rõ điều quan trọng là phải đánh giá đầy đủ năng lực thực tế của các cơ quan này về chuyên môn, nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ, cũng như điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhất là khi giao thụ lý, giải quyết các vụ án nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, dù có giới hạn. Do đó đại biểu đề nghị cần phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường nguồn nhân lực và đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan được giao thẩm quyền mới. Có thể quy định lộ trình thực hiện đối với từng nội dung cụ thể để các địa phương có thời gian chuẩn bị. Đồng thời, cần tăng cường cơ chế giám sát, kiểm tra của cơ quan cấp trên để bảo đảm việc thực thi đúng pháp luật và hạn chế rủi ro trong quá trình áp dụng.
Đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Tại khoản 1, Điều 1. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 193, theo đại biểu việc quy định như vậy sẽ giảm gánh nặng tài chính và tạo điều kiện phục hồi cho tổ chức tín dụng yếu kém, tuy nhiên cũng có thể làm cho các tổ chức tín dụng trở nên ỷ lại, thiếu cẩn trọng trong hoạt động kinh doanh khi biết lãi suất là 0% và dẫn đến sự mất công bằng đối với các tổ chức tín dụng hoạt động lành mạnh và tuân thủ quy định. Đồng thời việc trao quá nhiều quyền quyết định cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước mà không có các tiêu chí, nguyên tắc cụ thể trong Luật có thể dẫn đến thiếu minh bạch, khó giám sát và tiềm ẩn rủi ro hoặc không nhất quán. Do vậy, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu điều chỉnh lại theo hướng: Một là, cần cân nhắc quy định một mức lãi suất tượng trưng rất thấp (ví dụ: bằng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản hoặc một tỷ lệ phần trăm nào đó của các lãi suất này) thay vì 0% để giảm thiểu rủi ro, hoặc quy định rõ điều kiện áp dụng lãi suất 0% chỉ trong những trường hợp tổ chức tín dụng đối mặt nguy cơ đổ vỡ mang tính hệ thống và đã áp dụng mọi biện pháp tự cứu khác không thành công. Hai là, Luật nên quy định các nguyên tắc, tiêu chí khung về tài sản bảo đảm cho khoản vay đặc biệt (ví dụ: loại tài sản, yêu cầu về pháp lý, khả năng thanh khoản tối thiểu). Thống đốc Ngân hàng Nhà nước sẽ quy định chi tiết dựa trên khung này. Điều này để đảm bảo tăng tính minh bạch và cơ sở pháp lý.
Đại biểu đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu làm rõ tại khoản 2, điểm b, Điều 1. Bổ sung Điều 198a, liệu điều khoản này có áp dụng cho các hợp đồng bảo đảm được ký trước khi Luật có hiệu lực hay không, vì nhiều hợp đồng bảo đảm cũ có thể không có điều khoản cụ thể này, mà chỉ có điều khoản chung về quyền xử lý tài sản. Theo đại biểu, quy định này chỉ nên áp dụng cho các hợp đồng ký sau khi Luật có hiệu lực, hoặc có điều khoản chuyển tiếp linh hoạt. Đối với khoản 7, Điều 198c quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong vụ việc vi phạm hành chính, theo đại biểu quy định về thời gian “Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án...” là chưa rõ ràng, cụ thể về thời gian dẫn đến có thể kéo dài, gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng do tài sản bị hao mòn hoặc giảm giá trị. Đồng thời quy trình, thủ tục đề nghị và xem xét hoàn trả chưa được quy định cụ thể, có thể dẫn đến sự chậm trễ tùy nghi của cơ quan có thẩm quyền. Do đó đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định thời hạn tối đa để cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định việc hoàn trả tài sản kể từ ngày nhận được đề nghị hợp lệ của tổ chức tín dụng; Quy định rõ hơn về trách nhiệm của cơ quan đang tạm giữ tài sản trong việc bảo quản, tránh làm mất mát, hư hỏng tài sản bảo đảm.
Thanh Thúy